Về tác giả Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh sinh năm 1942 – 1988, tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, là một nữ nhà thơ người Việt Nam. Bà nổi tiếng với nhiều bài thơ được nhiều người biết đến như Thuyền và biển, Sóng, Thơ tình cuối mùa thu, Tiếng gà trưa. Bà được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh vì những thành tựu cho nền văn học Việt Nam.
Tháng 2 năm 1955, Xuân Quỳnh được tuyển vào Đoàn Văn công nhân dân Trung ương và được đào tạo thành diễn viên múa. Bà từng nhiều lần đi Nhật Bản để làm phim và dự Đại hội thanh niên sinh viên lần thứ nhất thế giới năm 1959 tại Vienna (Áo).
Từ năm 1962 đến 1964, Xuân Quỳnh theo học Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ (khoá I) của Hội Nhà văn Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp, bà bắt đầu làm việc tại báo Văn nghệ, báo Phụ nữ Việt Nam. Xuân Quỳnh là hội viên báo Văn Nghệ từ năm 1967, là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III. Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn với nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ, trước đó, Xuân Quỳnh kết hôn lần đầu với một nhạc công của Đoàn Văn công nhân dân Trung ương sau đó ly hôn. Từ năm 1978 đến lúc mất, Xuân Quỳnh là biên tập viên của Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
Xuân Quỳnh mất ngày 29 tháng 8 năm 1988 trong một vụ tai nạn giao thông tại đầu cầu Phú Lương, thị xã Hải Dương (nay là thành phố), tỉnh Hải Dương, cùng với chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi.
Bà được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Ngày 30 tháng 3 năm 2017, Chủ tịch nước Trần Đại Quang ký Quyết định số 602 chính thức truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho cố nhà thơ Xuân Quỳnh với hai tập thơ là Lời ru trên mặt đất và Bầu trời trong quả trứng.
Nguồn: Wikipedia
Về tác giả Vũ Tú Nam
Vũ Tú Nam (1929 - 2020) là một nhà văn Việt Nam. Ông là một trong những nhà văn được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học & nghệ thuật năm 2001.
Thân thế sự nghiệp
Nguyên tên khai sinh của ông là Vũ Tiến Nam, sinh ngày 5 tháng 10 năm 1929, quê tại thôn Lương Kiệt xã Liên Minh huyện Vụ Bản, Nam Định. Nhà văn Vũ Ngọc Bình và nhà thơ Vũ Cao là hai anh ruột của ông.
Xuất thân trong một gia đình nhà nho, lúc nhỏ ông theo học Trường Tiểu học Pháp - Việt ở Thị xã Hòa Bình, sau đó lên Hà Nội tiếp tục học bậc Trung học.
Năm 1947, ông nhập ngũ. Nhờ khả năng viết văn, ông được phân công công tác tại báo Chiến sĩ (Liên khu 4). Năm 1948, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1950, ông được ông Lưu Văn Lợi xin chuyển về công tác tại Báo Quân đội Nhân dân. Ông cũng là một trong những biên tập viên đầu tiên của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1957, cán bộ văn nghệ thuộc Cục Tuyên huấn Quân đội Nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thiếu tá.
Tháng 6 năm 1958, ông được chuyển sang công tác tại báo Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam, được kết nạp là Hội viên. Trong năm sau đó, ông lần lượt công tác tại các vị trí: Thư ký tòa soạn báo Văn học (nay là Văn Nghệ), Phó tổng biên tập báo Văn Nghệ, Giám đốc Nhà xuất bản Tác phẩm Mới (nay là Nhà xuất bản Hội Nhà Văn). Ông cũng được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III, IV, Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV.
Ông được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IX.
Ông nghỉ hưu năm 1994.
Ông qua đời ngày 9 tháng 9 năm 2020 tại Hà Nội.
Nguồn: Wikipedia
Về tác giả Nguyễn Đình Thi
Nguyễn Đình Thi (1924–2003) là một nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học và nhạc sĩ Việt Nam thời hiện đại.
Ông sinh ngày 20 tháng 12 năm 1924 ở Luang Prabang (Lào). Tuy nhiên, nguyên quán của ông là ở làng Vũ Thạch, nay là phố Bà Triệu, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Cha ông là một viên chức Sở bưu điện Đông Dương, từng sang làm việc ở Lào.
Những năm 1940 ông tham gia Tổ Văn hóa Cứu quốc. Năm 1945 ông tham dự Quốc dân Đại hội Tân Trào, sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Sau Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc.
Ông thuộc thế hệ các nghệ sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Ông viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm thơ, soạn nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình. Ông được nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996.
Sau năm 1954 ông tham gia công tác quản lý văn học nghệ thuật. Từ năm 1958 đến năm 1989 làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, ông là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật.
Ông có con trai là nhà văn nổi tiếng Nguyễn Đình Chính.
Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 2003 tại Hà Nội và an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch. Từ đó đến nay, ông được đặt tên cho một con phố ở Hà Nội. Năm 2012 đến nay, một con đường ở phường Nam Lý, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình cũng được mang tên ông.
Nguồn: Wikipedia
Về tác giả Phạm Hổ
Nhà thơ Phạm Hổ (28 tháng 11 năm 1926 - 4 tháng 5 năm 2007), bút danh Hồ Huy, sinh tại xã Thanh Liêm (nay là xã Nhơn An), Thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Anh trai ông là nhà văn Phạm Văn Ký và em trai là nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ. Ông đỗ bằng Thành chung năm 1943. Sau Cách mạng Tháng Tám ông làm công tác tuyên truyền và tham gia hoạt động văn học nghệ thuật.
Sau Hiệp định Geneva năm 1954, ông ra Bắc, tham gia sáng lập Hội Nhà Văn miền Bắc (1957) và cũng là một trong những người đầu tiên hình thành Nhà xuất bản Kim Đồng, nơi chuyên xuất bản văn hóa phẩm dành cho trẻ em.
Sau ba năm làm việc tại Nhà xuất bản Kim Đồng, ông chuyển sang Nhà xuất bản Văn học rồi về báo Văn Nghệ, cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn. Năm 1957 ông là thành viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam.
Chức vụ cuối cùng của ông ở tờ báo này là chức Phó tổng biên tập. Từ năm 1983, ông là Phó trưởng ban đối ngoại của Hội Nhà văn Việt Nam và là Chủ tịch Hội đồng văn học thiếu nhi của hội. Năm 1994, ông nghỉ hưu.
Ông vừa viết văn, làm thơ, viết kịch và vẽ tranh. Nổi bật trong các sáng tác của ông là dành cho thiếu nhi; nhiều tác phẩm đã được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông.
Năm 2001, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, đợt 1.
Ông qua đời ngày 4 tháng 5 năm 2007 tại Hà Nội, thọ 81 tuổi.
Nguồn: Wikipedia